Nghiên cứu của ĐH Harvard: Người dùng ứng dụng hẹn hò trực tuyến như Tinder có nguy cơ rối loạn ăn uống cao gấp 16,2 lần, hẹn hò thôi mà sao khổ thế này? ứng dụng hẹn hò có thể ảnh hưởng tiêu cực đến suy nghĩ của một người về cơ thể của họ. Người dùng
👉Hồng sâm khô là một trong các vị thuốc quý của Đông Y với rất nhiều công dụng bổ ích cho cơ thể như: Bồi bổ nguyên khí, nâng cao sức đề kháng cho cơ thể. Hỗ trợ điều trị ung thư: phòng chống ung thư, ức chế sự phát triển của khối u, giảm tác dụng phụ trong điều trị hóa trị, xạ trị đối với
Tình trạng rối loạn Lipit máu là gì? Nếu xảy ra lâu ngày có thể dẫn đến xơ vữa động mạch, vôi hóa từ đó gây tắc mạch. Từ đó làm tăng nguy cơ bị tai biến mạch máu não, hay nhồi máu cơ tim. Không chỉ vậy, bệnh này còn đi kém với nhiều bệnh lý mạn tính bao gồm đái tháo đường, tăng huyết áp, bệnh Gout hay béo phì
Làm thế nào thoát khỏi nguy cơ rối loạn tâm lý học đường do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19? Thanh Xuân 18:42 13/03/2022.
Bí quyết giảm một nửa tỷ lệ mỡ cơ thể của ca sĩ Đài Loan. Nhờ chăm chỉ tập luyện kết hợp ăn uống điều độ, ca sĩ Rachel Liang đưa tỷ lệ mỡ cơ thể từ 32% giảm còn 16%, cải thiện vòng hai thêm săn chắc, gợi cảm. Ca sĩ Đài Loan Rachel Liang. Chế độ tập luyện
cash. Rối loạn triệu chứng cơ thể được đặc trưng bởi nhiều phàn nàn dai dẳng về cơ thể mà có liên quan đến những suy nghĩ, cảm giác và hành vi thái quá và không thích hợp về những triệu chứng đó. Các triệu chứng đó không phải được tạo ra một cách chủ ý hoặc giả mạo và có thể hoặc không thể đi kèm với bệnh lý cơ thể đã biết. Chẩn đoán được dựa trên tiền sử của bệnh nhân và thỉnh thoảng từ các thành viên trong gia đình. Điều trị tập trung vào việc thiết lập một mối quan hệ bác sĩ-bệnh nhân lâu dài, hỗ trợ để tránh bệnh nhân tìm đến với các xét nghiệm chẩn đoán và liệu pháp điều trị không cần triệu chứng có thể hoặc không thể liên quan đến một vấn đề bệnh lý khác; các triệu chứng không còn phải yêu cầu việc không thể giải thích về mặt lâm sàng nữa, mà rối loạn được đặc trưng bởi bệnh nhân có những suy nghĩ, cảm xúc và mối quan ngại quá mức về chúng. Đôi khi các triệu chứng là cảm giác cơ thể bình thường hoặc khó chịu mà không biểu hiện một rối loạn nghiêm nhân thường không biết về vấn đề tâm thần tiềm ẩn của họ và tin rằng họ mắc bệnh thể chất, vì vậy họ thường tiếp tục gây áp lực với bác sĩ để thực hiện các xét nghiệm và điều trị bổ sung hoặc lặp lại ngay cả sau khi kết quả của một đánh giá rất kỹ là âm tính. Các than phiền thường xuyên về cơ thể thường bắt đầu trước 30 tuổi; hầu hết bệnh nhân đều có nhiều triệu chứng về thể chất, nhưng một số chỉ có một triệu chứng nghiêm trọng, điển hình là đau. Mức độ nghiêm trọng có thể dao động, nhưng các triệu chứng vẫn tồn tại và hiếm khi thuyên giảm với bất kỳ giai đoạn nào. Bản thân những triệu chứng hoặc sự lo lắng quá mức về chúng phiền nhiễu hoặc phá hoại cuộc sống hàng ngày. Một số bệnh nhân trở nên trầm cảm một cách rõ rối loạn triệu chứng cơ thể đi kèm với rối loạn bệnh lý khác, bệnh nhân thường phản ứng quá mức với những ý nghĩa bên dưới của rối loạn bệnh lý; ví dụ như những bệnh nhân đã hoàn toàn hồi phục thể chất từ một đợt nhồi máu cơ tim MI không biến chứng có thể tiếp tục hành xử như những người thương tật hoặc không ngừng lo lắng về việc mắc phải một chứng bệnh tiểu đường dù có hay không các triệu chứng có liên quan đến rối loạn bệnh lý khác, bệnh nhân lo lắng quá nhiều về các triệu chứng và có thể có những hậu quả thảm khốc và rất khó để trấn an. Những nỗ lực trấn an thường được diễn giải là bác sĩ không đánh giá các triệu chứng của họ một cách nghiêm mối quan tâm về sức khỏe thường có vai trò trung tâm và đôi khi bệnh nhân phải tiêu tốn nhiều thời gian trong cuộc sống. Bệnh nhân rất lo lắng về sức khỏe của họ và thường có vẻ như nhạy cảm bất thường với các tác dụng không mong muốn của kỳ bộ phận cơ thể nào cũng có thể bị ảnh hưởng, và các triệu chứng cụ thể và tần suất của chúng khác nhau giữa các nền văn kể biểu hiện như thế nào, bản chất của rối loạn triệu chứng cơ thể là suy nghĩ, cảm xúc hoặc hành vi quá mức hoặc không thích ứng của bệnh nhân trong việc đáp ứng với các triệu nhân có thể trở nên phụ thuộc vào người khác, yêu cầu giúp đỡ và hỗ trợ tinh thần và trở nên tức giận khi họ cảm thấy nhu cầu của họ không được đáp ứng. Họ cũng có thể đe dọa hoặc cố gắng tự sát. Thường không hài lòng với chăm sóc y tế, họ thường đi từ bác sĩ này sang bác sĩ khác hoặc tìm kiếm sự điều trị của một số bác sĩ đồng độ và sự dai dẳng của các triệu chứng có thể phản ánh một mong muốn mạnh mẽ để được chăm sóc. Các triệu chứng có thể giúp bệnh nhân tránh được những trách nhiệm nhưng cũng có thể cản trở những niềm vui và hoạt động như một sự trừng phạt, điều đó gợi ý những cảm giác nằm bên dưới như cảm giác không xứng đáng và tội lỗi. Tiêu chuẩn lâm sàngCác triệu chứng phải gây lo lắng hoặc tổn hại cuộc sống hàng ngày trong > 6 tháng và liên quan đến ít nhất một trong những điều sau đây Những suy nghĩ không cân xứng và liên tục về mức độ nghiêm trọng của các triệu chứngSự lo lắng liên tục về sức khỏe hoặc các triệu chứngDành quá nhiều thời gian và sức lực vào bận tâm các triệu chứng hoặc sức khỏeTrong lần đầu gặp, các bác sĩ có một bệnh sử sâu đôi khi trao đổi với các thành viên trong gia đình và thực hiện một thăm khám kỹ lưỡng và thường xuyên kiểm tra để xác định liệu một chứng rối loạn về thể chất có phải là nguyên nhân hay không. Vì bệnh nhân rối loạn triệu chứng cơ thể sau đó có thể phát triển các rối loạn thể chất đồng thời, việc thăm khám và làm các xét nghiệm phù hợp cũng cần được thực hiện khi mà các triệu chứng thay đổi một cách đáng kể hoặc những dấu hiệu khách quan phát triển. Tuy nhiên, một khi rối loạn bệnh lý đã được loại trừ rõ ràng hoặc rối loạn nhẹ đã được xác định và điều trị, bác sĩ nên tránh lặp lại các xét nghiệm; bệnh nhân ít khi được bảo đảm bởi kết quả xét nghiệm âm tính và có thể diễn giải việc tiếp tục làm các xét nghiệm như là để khẳng định rằng bác sĩ không chắc chẩn đoán là lành tính. Ngọc trai & cạm bẫy Bởi vì bệnh nhân rối loạn triệu chứng cơ thể sau đó có thể xuất hiện đồng thời các rối loạn thực thể, nên khám và xét nghiệm thích hợp khi các triệu chứng thay đổi đáng kể hoặc khi có các dấu hiệu khách quan. Liệu pháp nhận thức-hành viBệnh nhân, ngay cả những người có mối quan hệ thỏa đáng với bác sĩ chính, thường được giới thiệu đến bác sĩ tâm thần. Điều trị dược lý rối loạn tâm thần đồng diễn có thể có ích ví dụ, trầm cảm; tuy nhiên, can thiệp chủ yếu là liệu pháp tâm lý, đặc biệt là liệu pháp nhận thức hành nhân cũng được hưởng lợi từ việc có mối quan hệ hỗ trợ với bác sĩ chăm sóc chính, người điều phối tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ, giúp giảm triệu chứng, thường xuyên gặp họ và tránh cho họ khỏi các xét nghiệm và thủ thuật không cần thiết. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
Rối loạn dạng cơ thể là tình trạng rối loạn tâm thần dễ nhận thấy do người bệnh chú ý quá mức về các khuyết điểm liên quan đến ngoại hình. Bệnh kéo dài có thể gây các biến chứng nghiêm trọng, do đó cần được điều trị sớm để giảm thiểu nguy cơ. Rối loạn dị dạng cơ thể BDD là một rối loạn tâm thần dễ nhận thấy, trong đó một người bị bận tâm với một khiếm khuyết về thể chất không có thật hoặc một khiếm khuyết nhỏ mà những người khác không nhìn thấy. Do đó, những người mắc chứng rối loạn này tự coi mình là "xấu xí" và thường tránh tiếp xúc với xã hội hoặc chuyển sang phẫu thuật thẩm mỹ để cố gắng cải thiện ngoại có nhiều đặc tính giống rối loạn ăn uống và rối loạn ám ảnh cưỡng chế. BDD giống với rối loạn ăn uống ở chỗ cả 2 đều liên quan đến thay đổi về ngoại hình. Tuy nhiên, hai bệnh này khác nhau ở chỗ người mắc chứng rối loạn ăn uống thường xuyên lo lắng về cân nặng và ngoại hình trên toàn cơ thể, trong khi người bị BDD lại chú ý đến một bộ phận cụ thể trên cơ người mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế OCD có những suy nghĩ, nỗi sợ hãi hoặc hình ảnh nỗi ám ảnh lặp đi lặp lại mà họ không thể kiểm soát. Sự lo lắng hồi hộp được tạo ra bởi những suy nghĩ này dẫn đến việc hình thành một số thói quen nhất định. Với BDD, khi một người bận tâm đến khuyết điểm của mình sẽ dẫn đến xuất hiện một số hành vi như liên tục nhìn vào gương hoặc ngoáy vào da. Người bị BDD cuối cùng sẽ trở nên bị ám ảnh bởi những khiếm khuyết mà xã hội, công việc và gia đình gán là một rối loạn mãn tính không phụ thuộc vào tuổi tác. Bệnh thường bắt đầu sớm ở tuổi thiếu niên hoặc vị thành vấn đề về ngoại hình mà người bị BDD quan tâm nhất bao gồmLàn da Bao gồm nếp nhăn, sẹo, mụn trứng cáTóc Bao gồm ngọn tóc, thân tóc hoặc không có điểm khuôn mặt Chủ yếu là liên quan đến mũi, nhưng cũng có thể liên quan đến các vị trí lượng cơ thể Người mắc bệnh có thể bị ám ảnh về trọng lượng hoặc trương lực thước của dương vật, cơ bắp, vú, đùi, môngMùi cơ thể Rối loạn dạng cơ thể là một dạng rối loạn tâm thần thường gặp 2. Nguyên nhân gây rối loạn dạng cơ thể Nguyên nhân chính xác của BDD chưa được xác định rõ. Về lý thuyết, rối loạn liên quan đến một vấn đề về kích thước hoặc chức năng của một số vùng xử lý thông tin của não về ngoại hình. Trên thực tế, rối loạn dạng cơ thể xảy ra ở những người bị rối loạn tâm thần khác như trầm cảm, lo yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến sự phát triển hoặc kích hoạt BDD bao gồmĐã trải qua nhiều sự kiện đau thương hoặc xung đột cảm xúc trong thời thơ ấuLòng tự trọng thấpNhận nhiều lời chỉ trích từ cha mẹ hoặc những người xung quanhÁp lực từ môi trường sống coi trọng ngoại hình 3. Triệu chứng của rối loạn dạng cơ thể Một số dấu hiệu cảnh báo rối loạn dạng cơ thể BDD bao gồmThực hiện các hành vi lặp đi lặp lại và tốn thời gian như nhìn vào gương, tự lột da và cố gắng che đậy khuyết điểm hình thứcThường xuyên đặt câu hỏi với người khác về khuyết điểm bạn đang chú ý đếnLặp đi lặp lại việc chạm vào khiếm khuyết hình thứcXảy ra các vấn đề tại nơi làm việc, trường học hoặc trong các mối quan hệ do không thể ngừng tập trung vào khiếm khuyết hình thứcCảm thấy tự ti và không muốn ra ngoài nơi công cộng, hoặc cảm thấy lo lắng khi xung quanh có nhiều ngườiTư vấn nhiều lần với các chuyên gia y tế, chẳng hạn như bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ hoặc bác sĩ da liễu, để tìm cách cải thiện ngoại hình của mình 4. Các yếu tố nguy cơ Rối loạn dạng cơ thể thường bắt đầu trong những năm đầu tuổi thiếu niên và nó ảnh hưởng đến cả nam và số yếu tố làm tăng nguy cơ phát triển hoặc kích hoạt rối loạn dạng cơ thể, bao gồmCó họ hàng ruột thịt mắc rối loạn dạng cơ thể hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chếTrải nghiệm cuộc sống tiêu cực như bị trêu chọc thời thơ ấu, bỏ bê hoặc lạm dụngĐặc điểm về tính cách như chủ nghĩa hoàn hảoÁp lực xã hội hoặc cầu toàn về sắc đẹpĐang gặp phải các vấn đề tâm thần khác như lo lắng hoặc trầm cảm Những áp lực, cầu toàn về sắc đẹp dễ mắc bệnh rối loạn dạng cơ thể 5. Biến chứng Các biến chứng có thể được gây ra bởi hoặc liên quan đến rối loạn dạng cơ thể bao gồmTrầm cảm hoặc các rối loạn tâm thần khácSuy nghĩ hoặc có hành vi tự sátRối loạn lo âu, bao gồm rối loạn lo âu xã hội ám ảnh sợ xã hộiRối loạn ám ảnh cưỡng chếRối loạn ăn uốngLạm dụngVấn đề sức khỏe từ các hành vi như tự lột daĐau đớn về thể xác hoặc nguy cơ biến dạng do can thiệp phẫu thuật nhiều lần 6. Phòng ngừa Các biện pháp phòng ngừa rối loạn dạng cơ thể không được xác định rõ. Tuy nhiên, vì rối loạn dạng cơ thể thường bắt đầu trong những năm đầu tuổi thiếu niên nên việc xác định sớm và bắt đầu điều trị có thể có ích. Điều trị duy trì và lâu dài cũng có thể giúp ngăn ngừa rối loạn dạng cơ thể tái phát. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. Bài viết tham khảo nguồn XEM THÊM Rối loạn vận mạch, rối loạn dạng cơ thể điều trị như thế nào? Vì sao bạn khó tập trung? Ám ảnh về sự sạch sẽ có phải là bệnh?
Hệ thống nội tiết được xem như “nhạc trưởng” của cơ thể, bao gồm một mạng lưới các tuyến sản xuất và giải phóng hormone, giúp kiểm soát nhiều chức năng quan trọng, đặc biệt là khả năng chuyển hóa năng lượng giúp các tế bào và cơ quan vận hành. Hoạt động của hệ thống này ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển, trao đổi chất, chức năng tình dục và tâm trạng của cơ thể. Các tuyến nội tiết chính của cơ thể bao gồm Vùng dưới đồi Vùng này có mối liên hệ mật thiết qua đường mạch máu và đường thần kinh với tuyến yên. Các hormon do vùng dưới đồi bài tiết sẽ theo những con đường này đến dự trữ hoặc tác động kích thích hoặc ức chế đến chức năng của tuyến yên. Các hormon do tuyến này tiết bao gồm TSH - TRH, ACTH – CRH, FSH và LH-GnRH, Prolactin – PIH, ADH, oxytocin. Tuyến yên Nằm ở đáy não đằng sau các xoang, nó còn được gọi là “tuyến chủ” bởi vì nó ảnh hưởng nhiều đến các tuyến khác, đặc biệt là tuyến giáp. Tuyến yên gồm các hormon GH, Prolactin, ACTH, TSH, FSH, LH, Lipoprotein...Tùy thuộc vào từng loại hormon mà tuyến yên có các chức năng khác nhau như quyết định sự tăng trưởng của cơ thể GH, sự tăng trưởng và phát triển các tuyến sinh dục LH, FSH. Tuyến tùng tuyến này nằm gần trung tâm của não bộ và có thể sản xuất các nội tiết tố điều khiển giấc ngủ. Tuyến giáp trạng nằm ở hai bên và phía trước khí quản, ngay dưới thanh quản. Hai hormon quan trọng của tuyến giáp là T3 Triiodothyronine và T4 Tetraiodothyronine. Chức năng của tuyến giáp là điều hòa sự trao đổi chất. Tuyến cận giáp nằm ngay sau tuyến giáp, hormon tuyến cận giáp là Parahormon – PTH, có tác dụng lên xương, thận, ruột,… của cơ thể. Tuyến ức nằm trong lồng ngực, phía sau xương ức, là cơ quan quan trọng tạo hệ miễn dịch, giúp tế bào miễn dịch lympho T từ dạng tế bào non thành tế bào trưởng thành và có chức năng miễn dịch. Tuyến tụy nằm sau phúc mạc, thực hiện cả chức năng nội tiết và ngoại tiết. Tuyến thượng thận nằm phía trên của hai quả thận, tiết ra các hormone giúp cân bằng cơ thể. Tuyến này tiết ra 2 hormon quan trọng là catecholamin và cortisol. Nồng độ hormone trong cơ thể quá cao hoặc quá thấp, đều dẫn đến nội tiết tố bị rối loạn. Các bệnh và rối loạn nội tiết cũng xảy ra nếu cơ thể không đáp ứng với kích thích tố theo cách nó được yêu cầu. Khi hệ thống nội tiết tố ở trạng thái bình thường, các hormone sẽ giúp cân bằng trao đổi chất của cơ thể và chức năng sinh lý. Nếu vì 1 lý do nào đó làm sự cân bằng trên bị phá vỡ sẽ dẫn đến rối loạn nội tiết tố. Gồm 2 nguyên nhân chính gây nên bệnh lý rối loạn nội tiết Một tuyến nội tiết nào đó của cơ thể sản sinh ra quá nhiều hoặc quá ít nội tiết tố, được gọi là sự mất cân bằng hormone. Sự phát triển của các tổn thương trong hệ thống nội tiết chẳng hạn như các nốt hoặc khối u. Sự bài tiết các hormon trong cơ thể được điều hòa chủ yếu bằng cơ chế điều hòa ngược mà các tín hiệu điều hòa xuất phát từ các tuyến yên hoặc các tuyến ngoại biên khác. Khi cơ chế điều hòa này có vấn đề sẽ dẫn đến tăng hoặc giảm nội tiết tố. Dấu hiệu nhận biết rối loạn nội tiết tố có thể được ghi nhận qua các biểu hiện như Cơ thể có cảm giác mệt mỏi, bồn chồn, lo lắng, buồn chán, thất vọng và đôi khi có những suy nghĩ tiêu cực. Sự căng thẳng về tâm lý, áp lực, stress kéo dài và không rõ nguyên nhân. Da nhiều mụn sự mất cân bằng nội tiết tố làm da tiết nhiều dầu, bã nhờn dẫn đến làm tắc lỗ chân lông gây ra mụn. Giảm ham muốn tình dục ở cả nam và nữ giới. Ở nam giới, rối loạn nội tiết tố biểu hiện bằng tình trạng xuất tinh sớm, rối loạn cương dương, mãn dục sớm, trầm cảm, mức độ tập trung kém, cơ bắp bị nhão, lông tay và lông chân thưa thớt,... Ở nữ giới, khi bị rối loạn nội tiết thường xuất hiện các biểu hiện như rối loạn kinh nguyệt, giảm ham muốn tình dục, huyết áp tăng bất thường, tăng nguy cơ hiếm muộn, rậm lông, liên tục mắc các bệnh phụ khoa,... Khi tình trạng rối loạn nội tiết xảy ra sẽ dẫn đến cơ thể bị rất nhiều bệnh lý Rối loạn lipid máu, bệnh đái tháo đường là tình trạng rối loạn nội tiết tố phổ biến nhất trên lâm sàng hiện nay. Suy thượng thận hay còn gọi là bệnh Addison, biểu hiện khi bệnh nhân bị suy thượng thận bao gồm mệt mỏi, suy nhược, chán ăn, buồn nôn và nôn, sụt cân, đau bụng, sắc tố ở da và niêm mạc, thèm muối, hạ huyết áp đặc biệt là khi đứng dậy, và đôi khi bị hạ đường huyết. Hội chứng Cushing Hiếm gặp, các triệu chứng của hội chứng Cushing gồm biểu hiện béo phì thân trên, mặt tròn, có xuất hiện mỡ quanh vùng cổ và cánh tay, cẳng chân thì lại có dấu hiệu gầy. Hội chứng này nếu xảy ra ở trẻ em thì thường có xu hướng mắc béo phì và chậm phát triển. Bệnh khổng lồ acromegaly và các vấn đề rối loạn nội tiết tố tăng trưởng khác Bệnh lý này xảy ra do sự tăng quá mức lượng hormone khi còn nhỏ, phần lớn thể hiện qua chiều cao và kích thước cơ thể của đứa trẻ. Cường giáp Là bệnh gây ra bởi tình trạng tăng tiết hormone tuyến giáp triiodothyronine và thyroxin, các triệu chứng thường gặp khi bị cường giáp là tim đập nhanh, hồi hộp đánh trống ngực, gầy sút cân, bướu cổ... Suy giáp Là tình trạng chức năng tuyến giáp bị suy giảm, tuyến giáp sản xuất hormon quá ít so với nhu cầu cần thiết của cơ thể, do đó dẫn đến tổn thương ở các mô, cơ quan và có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của nữ giới. Triệu chứng thường gặp của suy giáp là mệt mỏi, suy giảm sức khỏe. Hội chứng buồng trứng đa nang Xảy ra khi buồng trứng có nhiều nang nhỏ, nó liên quan đến độ mất cân bằng hormone và kháng insullin, ảnh hưởng đến sức khỏe và khả năng sinh sản của phụ nữ. Dậy thì sớm Là tình trạng dậy thì quá sớm ở các trẻ, nguyên nhân là do các tuyến “báo động giả” khiến nội tiết tố tình dục giải phóng quá sớm. Tập thể dục hàng ngày bằng những bài tập nhẹ nhàng như đi bộ, chạy bộ, tập yoga,… Cần phải có chế độ ăn uống, làm việc, nghỉ ngơi một cách khoa học như ăn đúng và đủ bữa, bổ sung một lượng chất béo vừa phải, cân đối giữa thịt và rau củ, bổ sung vitamin cần thiết cho cơ thể… để quá trình sản xuất nội tiết tố hoạt động tốt hơn. Sử dụng các loại thực phẩm sạch và có nguồn gốc rõ ràng, tốt nhất là nên dùng thực phẩm hữu cơ và rau tự trồng. Hạn chế, tránh tiếp xúc với môi trường ô nhiễm. Ngủ đủ giấc, hạn chế và tốt nhất nên tránh thức khuya, tránh làm việc quá sức, stress… Sử dụng thuốc tránh thai và các loại thuốc điều trị bệnh cần theo đúng hướng dẫn của bác sĩ, không nên lạm dụng thuốc đặc biệt là thuốc tránh thai. Cần xét nghiệm máu định kỳ để phát hiện sớm và điều trị kịp thời tình trạng rối loạn nội tiết tố. Dấu hiệu nhận biết rối loạn nội tiết dễ thấy nhất ở bệnh nhân là tình trạng mệt mỏi, suy nhược kéo dài. Xét nghiệm máu và nước tiểu để kiểm tra nồng độ của các nội tiết tố trong cơ thể. Chẩn đoán hình ảnh phương pháp này có giá trị chẩn đoán xác định vị trí một nốt hoặc khối u. Cân bằng chế độ ăn uống hằng ngày một cách hợp lý Bổ sung đủ nước mỗi ngày, lượng nước cần thiết cho một người khỏe mạnh là 1,5 - 2 lít nước lọc, có thể thay thế nước lọc bằng các loại nước ép rau quả tươi. Đảm bảo cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng giúp cân bằng sự rối loạn nội tiết tố trong cơ thể bằng cách bổ sung các thực phẩm cần thiết như đậu nành, cà rốt, khoai tây, rau diếp, bông cải xanh,... Ăn nhiều thực phẩm giàu chất béo không bão hòa như dầu ô liu, dầu cải, dầu lạc, quả bơ,... Bổ sung các các axit béo trong cơ thể một cách hợp lý như Omega - 3, Omega - 6 bằng cách tìm kiếm các thực phẩm từ cá thu, cá hồi, dầu bắp, đậu nành,... Điều trị các bệnh, các hội chứng về tiêu hóa vì các vấn đề về tiêu hóa có thể ảnh hưởng việc kích thích các phản ứng tự miễn như rối loạn viêm khớp, tuyến giáp,... Tập thể dục mỗi ngày, đây là cách giúp cơ thể tăng cường sức khỏe, giảm viêm, giảm căng thẳng, hỗ trợ giấc ngủ và điều hòa chuyển hóa trong cơ thể. Tuy nhiên không nên tập thể dục quá sức có thể làm nặng hơn tình trạng bệnh. Ngủ đủ giấc và giảm stress cũng là một yếu tố cần thiết giúp cần bằng nội tiết tố trong cơ thể, mỗi đêm cần ngủ đủ từ 7-8 tiếng. Cần loại bỏ các yếu tố nguy cơ như thuốc lá, cafe, rượu… Không nên sử dụng thuốc tránh thai bừa bãi, cần theo chỉ định của bác sĩ. Bổ sung các vitamin cần thiết cho cơ thể như vitamin D3, cần bổ sung 600 IU vitamin D mỗi ngày cho người 19-70 tuổi, 800 IU mỗi ngày cho người trên 70 tuổi. Tuy nhiên đối với người sống ở vùng tối, trong mùa đông cần bổ sung khoảng IU đến IU vitamin D3 mỗi ngày. Xem thêm Xét nghiệm nội tiết tố nữ và nam Những điều cần biết Dấu hiệu cho thấy estrogen suy giảm - điều gì xảy ra khi estrogen giảm? Nhận diện dấu hiệu suy giảm testosterone ở nam giới
Rối loạn nội tiết có thể là kết quả của Rối loạn chức năng bắt nguồn từ chính tuyến nội tiết ngoại vi rối loạn sơ cấpSự kém kích thích của tuyến yên rối loạn thứ phát cho dù do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hoặc do vùng dưới đồi bị kích thích kém tuyến yênSự kích thích quá mức của tuyến yên rối loạn thứ phát cho dù là do rối loạn chức năng tuyến yên nội tại hoặc sự kích thích quá mức của tuyến yên bởi vùng dưới đồiHiếm khi, do phản ứng bất thường của mô đối với các hormone thường là giảm chức năng. Các rối loạn có thể dẫn đến sự sản sinh quá mức hormone tăng chức năng hoặc không đủ hormone giảm chức năng. Rối loạn chức năng của các tuyến nội tiết có thể là do tuyến yên bị kích thích quá mức cho dù là do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hay do vùng dưới đồi bị kích thích tuyến yên. Cường năng của tuyến nội tiết có thể do tuyến yên bị kích thích quá mức nhưng phổ biến nhất là do tuyến nội tiết đó quá sản hoặc tân sinh. Trong một số trường hợp, các loại ung thư từ các mô khác có thể sản sinh ra hormone sản xuất hormone ngoại bào. Sự dư thừa hormone cũng có thể do sử dụng hormone ngoại sinh. Trong một số trường hợp, bệnh nhân dùng các sản phẩm không kê đơn có chứa hormone và có thể không biết hoặc không nói với thầy thuốc. Khi một hormone nội tiết ngoại vi sản xuất ra một enzym lỗi có thể dẫn đến việc sản xuất quá nhiều các hormone ở gần điểm gián đoạn. Cuối cùng, sự sản xuất quá nhiều hormone có thể xảy ra như một đáp ứng đối với tình trạng bệnh. Sự suy giảm chức năng của một tuyến nội tiết có thể do tuyến yên bị kích thích dưới mức cho dù là do rối loạn chức năng nội tại của tuyến yên hay do vùng dưới đồi bị kích thích kém tuyến yên. Suy giảm chức năng xuất phát từ tuyến ngoại biên có thể là do các rối loạn bẩm sinh hoặc mắc phải bao gồm bệnh tự miễn, khối u, nhiễm trùng, bệnh mạch máu, và ngộ độc. Một số hormone cần chuyển đổi sang dạng hoạt hóa sau khi bài tiết ra từ tuyến nội tiết ngoại vi. Một số rối loạn có thể khóa bước này ví dụ, bệnh thận có thể ức chế việc sản sinh ra dạng vitamin D hoạt động. Các kháng thể đối với hormone lưu hành hoặc thụ thể của nó có thể cản trở khả năng của hormone gắn kết với thụ thể của hoặc thuốc có thể làm tăng tỷ lệ giải phóng hormon. Các chất lưu hành cũng có thể cản trở các chức năng của hormon. Những bất thường của thụ thể hoặc ở những nơi khác trong mô ngoại vi cũng có thể gây giảm chức năng của tuyến nội tiết. Bởi vì các triệu chứng rối loạn nội tiết có thể bắt đầu một cách lặng lẽ và không đặc hiệu, việc phát hiện triệu chứng lâm sàng thường muộn sau nhiều tháng hoặc nhiều năm. Vì lý do này, chẩn đoán sinh hóa thường rất cần thiết; nó thường đòi hỏi phải đo nồng độ trong máu của hormone các nội tiết ngoại vi, hormone tuyến yên, hoặc cả hai. Bởi vì hầu hết các hormone có nhịp sinh học, các phép đo cần được thực hiện vào một thời gian nhất định trong ngày. Hormone thay đổi trong thời gian ngắn ví dụ, hormone LH đòi hỏi phải có được 3 hoặc 4 giá trị trên 1 hoặc 2 h hoặc sử dụng một mẫu máu trộn lẫn. Hormone thay đổi theo từng tuần ví dụ estrogen đòi hỏi lấy các giá trị riêng biệt cách nhau 1 tuần. Hormone tự do hoặc có hoạt tính sinh học ví dụ, hormone không bị gắn với một chất nào đó liên kết với nó thường được cho là dạng hoạt động. Hormone tự do hoặc có hoạt tính sinh học được đo bằng cách sử dụng lọc máu cân bằng, siêu lọc, hoặc phương pháp chiết dung môi để tách hormone tự do và albumin gắn hormone khỏi liên kết với globulin. Những phương pháp này có thể tốn kém và mất thời gian. Các xét nghiệm hormone tự do có hoạt tính tương đồng và cạnh tranh, mặc dù thường được sử dụng trong thương mại, nhưng không phải lúc nào cũng chính xác và không nên sử dụng. Các nồng độ hormone tự do có thể tính gián tiếp bằng cách đo nồng độ của protein liên kết và sử dụng chúng để tính tổng lượng hormone trong huyết thanh. Tuy nhiên, các phương pháp gián tiếp sẽ không chính xác nếu khả năng liên kết với protein của hormone đã bị thay đổi ví dụ, do rối loạn.Trong một số trường hợp, các ước tính gián tiếp khác được sử dụng. Ví dụ, vì hormone tăng trưởng GH có thời gian bán thải trong huyết thanh ngắn và rất khó phát hiện, yếu tố tăng trưởng 1 giống insulinIGF-1, được sản xuất để đáp ứng với GH, thường được đo như một chỉ số hoạt động của GH. Nồng độ hormone có hoạt tính sinh học thường là đo trong máu. Trong nhiều trường hợp, xét nghiệm động học là cần thiết. Vì vậy, trong trường hợp các cơ quan giảm chức năng, có thể cần làm test kích thích ví dụ, Kích thích ACTH Test kích thích Bệnh Addison tiến triển thầm lặng, chức năng vỏ thượng thận ngày một suy giảm. Nó gây ra các triệu chứng khác nhau, bao gồm hạ huyết áp, sạm da, thậm chí cơn suy thượng thận cấp với biến cố... đọc thêm . Trong trường hợp cường chức năng, cần làm test ức chế ví dụ, ức chế dexamethasone đàn áp Test ức chế bằng Dexamethasone Hội chứng Cushing gồm một nhóm các triệu chứng lâm sàng gây ra bởi mức độ cao mạn tính của cortisol hoặc corticosteroid liên quan. Bệnh Cushing là hội chứng Cushing là kết quả của việc sản xuất... đọc thêm . Thay thế hormone thiếuKiềm chế sản xuất hormone quá mứcLiệu pháp phóng xạ, phẫu thuật, và các loại thuốc ức chế sản sinh hormone được sử dụng để điều trị cường chức năng tuyến nội tiết. Trong một số trường hợp, thuốc đối kháng thụ thể được sử dụng ví dụ pegvisomant là chất đối kháng thụ thể hormone tăng trưởng được sử dụng ở bệnh nhân u tuyến yên tiết hormone tăng trưởng. Hormone thay đổi dần theo số tuổi. Hầu hết nồng độ các hormone số mức độ hormone vẫn ổn số mức hormone tăng thay đổi liên quan đến lão hóa tương tự như ở những bệnh nhân bị thiếu hụt hormone. Một số bằng chứng cho thấy thay thế một số hormone ở người cao tuổi có thể cải thiện các kết cục chức năng ví dụ sức mạnh cơ bắp, mật độ khoáng xương nhưng vẫn chưa có bằng chứng về những ảnh hưởng đối với tử vong. Trong một số trường hợp, thay thế nội tiết tố có thể có hại, vì làm tăng nguy cơ ung thư vú khi mãn kinh oestrogen và progesterone liệu pháp. Một lý thuyết cạnh tranh là sự suy giảm mức độ hormone liên quan đến tuổi tác tượng trưng cho sự giảm chuyển hóa tế bào. Khái niệm này dựa trên tỷ lệ lý thuyết sống của lão hóa tức là nhanh hơn tốc độ trao đổi chất của cơ thể, nhanh hơn nó chết. Khái niệm này dường như được hỗ trợ bởi các nghiên cứu về tác động của chế độ ăn kiêng. Hạn chế làm giảm mức độ kích thích tố kích thích sự trao đổi chất, do đó làm chậm tốc độ trao đổi chất; hạn chế cũng kéo dài cuộc sống ở loài gặm nhấm. Mức độ hormone giảm khi lão hóa bao gồm Dehydroepiandrosterone DHEA và DHEA sulfateEstrogenHormone tăng trưởng và yếu tố tăng trưởng giống insulin 1MelatoninPregnenoloneTestosteroneDehydroepiandrosterone DHEA và hàm lượng sulfate giảm đáng kể theo độ tuổi. Mặc dù người ta nghĩ rằng bổ sung DHEA ở người cao tuổi là tốt, hầu hết các thử nghiệm có đối chứng không cho thấy bất kỳ lợi ích lớn là tiền thân của tất cả các hormone steroid được biết đến. Nồng độ chất này cũng suy giảm theo tuổi giống DHEA. Các nghiên cứu trong những năm 1940 cho thấy sự an toàn và lợi ích của nó ở những người bị viêm khớp, nhưng các nghiên cứu bổ sung cho thấy nó không có tác dụng có lợi nào lên bộ nhớ và sức mạnh cơ độ hormone tăng trưởng GH và hormone nội tiết ngoại vi yếu tố tăng trưởng giống insulin 1 [IGF-1] giảm theo độ tuổi. Thay thế GH ở người lớn tuổi đôi khi tăng khối lượng cơ nhưng không tăng sức mạnh cơ có thể gặp ở người suy dinh dưỡng. Tác dụng phụ ví dụ hội chứng ống cổ tay, chứng đau khớp, giữ nước rất phổ biến. GH có thể có vai trò trong điều trị ngắn hạn đối với một số bệnh nhân lớn tuổi bị suy dinh dưỡng, nhưng ở những bệnh nhân suy dinh dưỡng nặng, GH làm tăng tử vong. Chất kích thích tiết kích thích sản xuất GH sinh lý có thể cải thiện lợi ích và giảm nguy độ melatonin, một hormone được sản xuất bởi tuyến tùng, cũng giảm theo tuổi. Sự suy giảm này đóng một vai trò quan trọng trong việc mất nhịp sinh học theo tuổi. Mức độ hormone duy trì ổn định khi một người già đi bao gồm Hormone kích thích vỏ thượng thận cơ bảnCortisol cơ bản1,25-DihydroxycholecalciferolEstradiol ở nam giớiInsulin đôi khi tăng lênHormon kích thích tuyến giáp TSHThyroxine Hormone tăng liên quan đến lão hóa có liên quan đến khiếm khuyết thụ thể hoặc khiếm khuyết thụ thể sau, dẫn đến suy giảm chức năng. Các kích thích tố này bao gồm Hormone vỏ thượng thận ACTH – tăng phản ứng với corticotropin-làm giảm hormoneActivin ở nam giớiYếu tố lợi tiểu natri nhĩCholecystokininHormone kích thích nang trứngGonadotropins ở phụ nữ NorepinephrineHormone cận giápGlobulin liên kết hormone giới tínhPeptide vận mạch ở ruộtVasopressin cũng mất nhịp sinh học
Rối loạn khiếm khuyết cơ thể là một rối loạn tâm thần. Trong đó bạn không thể ngừng suy nghĩ về một hoặc nhiều khuyết điểm về ngoại hình của mình. Đó có thể là một khuyết điểm nhỏ mà người khác không thể thấy được. Nhưng bạn cảm thấy rất xấu hổ, ngại ngùng và lo lắng đến mức có thể tránh né xã hội. Hãy cùng tìm hiểu về chứng rối loạn này thông qua bài viết sau của chuyên khoa Tâm thần Nguyễn Trung Nghĩa. Nội dung bài viết Dấu hiệu nhận biết Rối loạn khiếm khuyết cơ thể là gì?Những nguyên nhân nào gây ra?Hậu quả do bệnh mang lạiCác biện pháp phòng ngừaChẩn đoán bệnh rối loạn khiếm khuyếtPhương pháp điều trị Dấu hiệu nhận biết Rối loạn khiếm khuyết cơ thể là gì? Khi bị rối loạn khiếm khuyết cơ thể, bạn thường chú ý đến ngoại hình của mình và liên tục nhìn vào gương, chải chuốt hoặc tìm cách trấn an bản thân, đôi khi trong nhiều giờ mỗi ngày. Khuyết điểm bạn nhận biết được và các hành vi lặp lại khiến bạn đau khổ. Ảnh hưởng đến các hoạt động thường ngày. Bạn tìm kiếm nhiều mỹ phẩm để cố gắng “sửa chữa” khuyết điểm đó của mình. Sau đó, bạn có thể tạm thời hài lòng hoặc bớt đau khổ. Nhưng thường thì sự lo âu sẽ quay trở lại và bạn có thể tiếp tục tìm kiếm các cách khác để sửa chữa khuyết điểm của mình. 1. Các triệu chứng của bệnh Bận tâm quá mức đến khuyết điểm về ngoại hình mà người khác không thể nhìn thấy hoặc chỉ biểu hiện rất nhỏ. Có niềm tin mãnh liệt về khuyết điểm ngoại hình khiến bạn xấu xí hoặc dị dạng. Tin rằng người khác chú ý đặc biệt đến ngoại hình của bạn theo cách tiêu cực hoặc chế giễu bạn. Khó chống lại hoặc kiểm soát các hành vi nhằm khắc phục hoặc che giấu khuyết điểm. Chẳng hạn như thường xuyên kiểm tra gương, chải chuốt hoặc bóc da. Cố gắng che giấu khuyết điểm bằng quần áo hoặc trang điểm. Thường xuyên so sánh ngoại hình của mình với người khác. Thường xuyên tìm kiếm sự trấn an về ngoại hình từ người khác. Có khuynh hướng cầu toàn. Ít thỏa mãn khi tìm kiếm các loại mỹ phẩm hoặc thẩm mỹ. Tránh né xã hội. Sự bận tâm về ngoại hình và những suy nghĩ quá mức và hành vi lặp lại có thể không mong muốn, khó kiểm soát và tốn thời gian. Gây ra sự đau khổ hoặc vấn đề lớn trong cuộc sống, công việc, học tập hoặc các lĩnh vực khác. Xem thêm Những điều cần biết về chứng Rối loạn phân ly 2. Các bộ phận cơ thể thường được chú ý Mặt, chẳng hạn như mũi, da, nếp nhăn, mụn trứng cá và các nhược điểm khác. Tóc, chẳng hạn như bề ngoài, mỏng và hói. Da và tĩnh mạch. Kích thước vú. Kích thước và sự rắn chắc của cơ bắp. Bộ phận sinh dục. Sự bận tâm đến việc cơ thể của bạn quá nhỏ hoặc không đủ cơ bắp rối loạn khiếm khuyết cơ bắp xảy ra hầu như chỉ ở nam giới. Nhận thức về ngoại hình có thể thay đổi tùy lúc. Bạn có thể nhận ra rằng niềm tin của bạn là quá mức hoặc không đúng sự thật. Hoặc nghĩ rằng chúng có thể đúng hoặc hoàn toàn là sự thật. Bạn càng tin bao nhiêu, bạn càng gặp nhiều đau khổ và gián đoạn trong cuộc sống bấy nhiêu. Những nguyên nhân nào gây ra? Chưa có nguyên nhân nào được xác định gây ra rối loạn khiếm khuyết cơ thể. Điều đó có thể xuất phát từ sự kết hợp của nhiều vấn đề. Như tiền sử gia đình có rối loạn, bất thường ở não và những đánh giá hoặc trải nghiệm tiêu cực về cơ thể hoặc bản thân. Các yếu tố nguy cơ Rối loạn khiếm khuyết cơ thể thường bắt đầu trong những năm đầu của thời niên thiếu. Ảnh hưởng đến cả nam và nữ. Một số yếu tố dường như làm tăng nguy cơ tiến triển hoặc thúc đẩy đến rối loạn khiếm khuyết cơ thể, bao gồm Có người thân bị rối loạn khiếm khuyết cơ thể hoặc rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Trải nghiệm tiêu cực trong cuộc sống. Chẳng hạn như bị trêu chọc, bỏ rơi hoặc lạm dụng trong thời thơ ấu. Một số đặc điểm tính cách, chẳng hạn như cầu toàn. Có một tình trạng tâm thần khác, chẳng hạn như lo âu hoặc trầm cảm. Áp lực xã hội hoặc kỳ vọng về cái đẹp là một trong các yếu tố nguy cơ dẫn đến rối loạn khiếm khuyết cơ thể Hậu quả do bệnh mang lại Rối loạn trầm cảm chủ yếu hoặc rối loạn khí sắc khác. Suy nghĩ hoặc hành vi tự sát. Rối loạn lo âu, bao gồm rối loạn lo âu xã hội ám ảnh sợ xã hội. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Chứng rối loạn ăn uống. Lạm dụng chất. Vấn đề sức khỏe từ các hành vi như bóc da. Đau đớn về thể xác hoặc nguy cơ biến dạng do can thiệp phẫu thuật nhiều lần. Các biện pháp phòng ngừa Chưa có cách nào được biết có thể ngăn ngừa rối loạn khiếm khuyết cơ thể. Tuy nhiên, vì nó thường bắt đầu trong những năm đầu của tuổi thiếu niên, việc xác định rối loạn sớm và bắt đầu điều trị có thể có ích. Điều trị duy trì lâu dài cũng có thể giúp ngăn ngừa tái phát các triệu chứng rối loạn khiếm khuyết cơ thể. Chẩn đoán bệnh rối loạn khiếm khuyết Chẩn đoán rối loạn khiếm khuyết cơ thể sau khi đã loại trừ các bệnh lý y khoa khác, thường dựa trên Đánh giá tâm lý, đánh giá các yếu tố nguy cơ và suy nghĩ, cảm xúc và hành vi liên quan đến hình ảnh tiêu cực của bản thân. Tiền sử cá nhân, xã hội, gia đình và y khoa. Các triệu chứng được liệt kê trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần DSM-5, được xuất bản bởi Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. Phương pháp điều trị Điều trị rối loạn khiếm khuyết cơ thể bao gồm sự kết hợp giữa liệu pháp nhận thức hành vi và thuốc. 1. Liệu pháp nhận thức hành vi Liệu pháp nhận thức hành vi đối với rối loạn khiếm khuyết cơ thể tập trung vào Học cách hiểu được tại sao những suy nghĩ, cảm xúc và hành vi tiêu cực duy trì theo thời gian. Thử thách những suy nghĩ tiêu cực tự động về hình ảnh cơ thể bạn và học cách suy nghĩ linh hoạt hơn. Học các cách khác nhau để quản lý sự thôi thúc hoặc hành vi lặp lại, giảm thiểu việc soi gương hoặc tìm kiếm sự trấn an. Dạy cho bạn những hành vi khác để cải thiện sức khỏe tinh thần, chẳng hạn như giải quyết vấn đề tránh né xã hội. Bạn và nhà trị liệu có thể thảo luận về mục tiêu trị liệu và phát triển một kế hoạch điều trị được cá nhân hóa để học hỏi và củng cố các kỹ năng ứng phó. Thành viên trong gia đình tham gia vào quá trình điều trị là một điều rất quan trọng, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên. 2. Thuốc Không có loại thuốc nào được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ FDA phê duyệt để điều trị rối loạn khiếm khuyết cơ thể. Tuy nhiên, các loại thuốc dùng để điều trị các rối loạn tâm thần khác – như trầm cảm và rối loạn ám ảnh cưỡng chế – có thể có hiệu quả. Thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc SSRI. Vì rối loạn khiếm khuyết cơ thể một phần là do serotonin trong não, nên SSRI được chỉ định. SSRI có hiệu quả đối với rối loạn khiếm khuyết cơ thể hơn các thuốc chống trầm cảm khác. Có thể giúp kiểm soát suy nghĩ tiêu cực và các hành vi lặp lại. Các loại thuốc khác. Trong một số trường hợp, có thể sử dụng các loại thuốc khác ngoài SSRI, tùy thuộc vào triệu chứng của bạn. Thuốc điều trị rối loạn khiếm khuyết cơ thể 3. Nhập viện Trong một số trường hợp, rối loạn khiếm khuyết cơ thể có thể nghiêm trọng đến mức phải nhập viện. Thường khi bạn không thể làm được các công việc sinh hoạt hàng ngày hoặc ngay khi bạn có nguy cơ làm hại chính mình. 4. Thay đổi lối sống Bám sát kế hoạch điều trị Đừng bỏ qua các buổi trị liệu, ngay cả khi bạn không muốn đi. Ngay cả khi bạn cảm thấy khỏe, hãy tiếp tục dùng thuốc. Nếu ngưng thuốc, các triệu chứng có thể quay trở lại. Bạn cũng có thể gặp các triệu chứng giống như cai rượu do ngừng thuốc quá đột ngột. Tìm hiểu về bệnh của bạn Giúp tiếp thêm động lực và thúc đẩy bạn bám sát kế hoạch điều trị. Chú ý đến các dấu hiệu cảnh báo Hỏi bác sĩ hoặc nhà trị liệu về những thứ có thể kích hoạt các triệu chứng của bạn. Lập kế hoạch để biết phải làm gì nếu các triệu chứng quay trở lại. Liên hệ với bác sĩ hoặc nhà trị liệu nếu nhận thấy bất kỳ thay đổi nào về triệu chứng hoặc cảm giác. Thực hành các kỹ năng đã học Thường xuyên thực hành các kỹ năng bạn đã học được trong quá trình trị liệu để chúng trở thành thói quen. Không dùng thuốc và rượu Rượu và thuốc kích thích có thể làm nặng thêm các triệu chứng hoặc tương tác với thuốc. Chủ động Hoạt động thể chất có thể giúp kiểm soát nhiều triệu chứng như trầm cảm, căng thẳng và lo lắng. Đi bộ, chạy bộ, bơi lội, làm vườn hoặc tham gia các hình thức hoạt động thể chất khác mà bạn thích. Tuy nhiên, tránh tập thể dục quá mức như một cách để sửa chữa khuyết điểm. Chứng rối loạn khiếm khuyết cơ thể nếu không được điều trị, có thể trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Từ đó dẫn đến lo lắng, trầm cảm nặng, thậm chí là suy nghĩ và hành vi tự tử. Ngại ngùng và xấu hổ về ngoại hình có thể khiến bạn không tìm kiếm việc điều trị. Bác sĩ Tâm thần sẽ giúp bạn có được phương pháp điều trị tốt nhất và không bao giờ phán xét bạn. Nếu bạn có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào, đừng ngại ngần, hãy liên hệ để được khám và điều trị sớm nhất.
rối loạn cơ thể